1. Sự bùng nổ nhu cầu về địa chỉ IPv4 khiến thời gian dự báo IPv4 cạn kiệt bị thu ngắn lại.
2. Động thái của các quốc gia và các tổ chức quản lý địa chỉ quốc tế trong tình hình hiện tại
3. Chính sách thúc đẩy phát triển IPv6
4. Tình hình tài nguyên địa chỉ tại Việt Nam
5. Khuyến nghị của VNNIC trước vấn đề tài nguyên hiện tại
Kể từ năm 2003, khi tốc độ tiêu thụ địa chỉ IPv4 bắt đầu tăng vọt do sự phát triển của các loại hình dịch vụ và phương thức kết nối mạng tiêu tốn địa chỉ, khả năng cạn kiệt nguồn IPv4 toàn cầu đã trở thành chủ đề nóng được bàn thảo nhiều trên các diễn đàn, thông tin về hoạt động của mạng Internet.
Những năm tiếp theo, vùng địa chỉ IPv4 dự trữ cho hoạt động Internet toàn cầu được quản lý bởi IANA (Internet Assigned Numbers Authority-tổ chức quản lý địa chỉ cấp cao nhất) ngày càng vơi đi nhanh, việc IPv4 sẽ hết trở nên rõ ràng và tất yếu.
Cuối năm 2006, các tổ chức quản lý tài nguyên địa chỉ quốc tế đã chính thức thừa nhận về việc cạn kiệt IPv4 và không lâu nữa, các tổ chức này sẽ không còn địa chỉ IPv4 để cấp và đồng loạt khuyến nghị cộng đồng về việc nhanh chóng triển khai IPv6 nhằm đảm bảo cho sự phát triển liên tục của hoạt động Internet.
Tại cuộc họp thường niên lần thứ 29 (tháng 6/2007) của ICANN, tiến sĩ VintCerf chủ tịch ICANN đã thừa nhận địa chỉ IPv4 sẽ hết trong vài năm tới và khuyến nghị rằng vấn đề mấu chốt của Internet toàn cầu là cộng đồng cần phải nhận thức được rằng việc phát triển của mạng Internet trong tương lai phụ thuộc vào việc triển khai thế hệ địa chỉ IPv6.
1. Sự bùng nổ về nhu cầu địa chỉ IPv4 khiến thời gian dự báo IPv4 cạn kiệt bị thu ngắn lại
Địa chỉ IPv4 được thiết kế có chiều dài 32 bit và có thể cung cấp 232 (khoảng 4 tỉ địa chỉ), được quản lý bởi tổ chức cấp cao nhất là IANA. IANA phân bổ lại cho các tổ chức quản lý cấp vùng (RIR-Regional Internet Registry) theo các vùng địa chỉ /8 (một vùng /8 bằng 1/256 không gian địa chỉ toàn cầu và bao gồm 16.777.216 địa chỉ ) để phân phối cho các tổ chức trên toàn cầu. Hiện tại có 5 RIR: APNIC phụ trách khu vực Châu Á – Thái Bình Dương; ARIN phụ trách khu vực Bắc Mỹ và một phần Caribe; RIPE NCC phụ trách khu vực Châu Âu, Trung Đông; LACNIC phụ trách khu vực Châu Mỹ Latinh và biển Caribe; AFNIC phụ trách khu vực Châu Phi.
Tính đến 01/10/2008, hệ thống quản lý địa chỉ toàn cầu đang còn 39 /8 (chiếm gần 15% không gian IPv4). Thông tin báo cáo chi tiết về tình trạng và khoảng thời gian cạn kiệt địa chỉ IPv4, tham khảo tại: http://www.potaroo.net/tools/IPv4/
Trong các năm gần đây (kể từ năm 2004), trung bình trong một năm, toàn cầu tiêu thụ khoảng 12 khối /8. Với tốc độ tiêu thụ này, cuối năm 2007, theo phân tích của các tổ chức quản lý tài nguyên quốc tế, thời điểm cạn kiệt địa chỉ Ipv4 sẽ rơi vào khoảng tháng 03/2012. Song gần đây, tốc độ xin cấp địa chỉ IPv4 tăng lên rất nhanh, tốc độ cấp phát địa chỉ IPv4 của các tổ chức quản lý địa chỉ cấp vùng ngày càng tăng cao, đến giữa năm 2008, khoảng thời gian còn lại của Ipv4 được dự báo đã bị thu ngắn lại 5 tháng, vào khoảng tháng 11/2011, sẽ hết địa chỉ IPv4 để cấp phát cho các hoạt động Internet toàn cầu.
Trước tình hình này, Trung tâm Thông tin mạng Châu Á – Thái Bình Dương (APNIC) đã có động thái thắt chặt quy trình thẩm định xét duyệt cấp phát địa chỉ IPv4 đồng thời đặt đồng hồ đếm ngược khoảng thời gian còn lại của IPv4. Bên cạnh đó, các chính sách phân chia, cấp phát các vùng địa chỉ IPv4 cuối cùng cũng đã được thông qua tại kỳ họp APNIC 26 (tháng 8/2008) và sẽ đưa vào áp dụng trong thời gian tới.
Dưới đây là các số liệu phản ánh về lượng địa chỉ IPv4 hiện tại và tốc độ tiêu thụ IPv4 trên toàn cầu :
Tính đến hết tháng 9/2008, hệ thống quản lý địa chỉ toàn cầu đang còn 39 khối /8 (là lượng địa chỉ còn lại của IANA đang cấp dần cho các RIR). Mỗi khi vùng địa chỉ của RIR còn lại nhỏ hơn /9 (tương đương 0,5 khối /8) thì IANA sẽ cấp tiếp địa chỉ, hiện tại tối đa mỗi lần cấp là 2 khối /8. Đặc biệt: theo chính sách mới được thông qua vào tháng 9/2008 bởi toàn thể 05 RIR trên toàn cầu, khi nguồn địa chỉ Ipv4 dự trữ của IANA đạt đến ngưỡng 05 khối /8, IANA sẽ dừng chính sách cấp phát hiện tại và chia đều 05 khối /8 cho 05 RIR. Tại thời điểm đó, mỗi RIR sẽ nhận được 01 khối /8 và được toàn quyền xây dựng chính sách riêng của mình trong việc cấp phát khối /8 đó.
Năm |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
Lượng địa chỉ tiêu thụ (khối /8) |
4 |
7 |
3 |
5 |
9 |
11 |
10 |
13 |
Bảng 1: Số lượng địa chỉ IPv4 tiêu thụ toàn cầu từ năm 2000 trở lại đây (nguồn:www.iana.org )
Năm |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
Lượng địa chỉ tiêu thụ (khối /8) |
1.25 |
1.70 |
1.60 |
1.98 |
2.55 |
3.21 |
3.07 |
4.15 |
Bảng 2: Số lượng địa chỉ IPv4 tiêu thụ trong khu vực APNIC từ năm 2000 trở lại đây (nguồn:www.apnic.net)
Dễ dàng nhận thấy, trong vài năm trở lại đây, tốc độ xin cấp địa chỉ IPv4 tăng lên rất nhanh. Và Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực có tốc độ tiêu thụ địa chỉ Ipv4 lớn nhất.
Trong 9 tháng đầu năm 2008, mặc dù đã áp dụng chính sách thắt chặt trong việc thẩm định cấp phát, lượng địa chỉ Ipv4 tiêu thụ trong khu vực APNIC vẫn không có dấu hiệu chậm lại: 3.89 khối /8. Các quốc gia góp phần tiêu thụ địa chỉ Ipv4 nhiều nhất trong khu vực là Trung Quốc, tiếp đến là Nhật Bản và Hàn Quốc. Chỉ tính riêng Trung Quốc, trong 9 tháng đầu năm 2008 đã có khối lượng tiêu thụ địa chỉ Ipv4 ngang bằng tổng số tất cả các quốc gia khác trong khu vực (1.89/3.89). Với nguy cơ cạn kiệt địa chỉ Ipv4, các nước có xu hướng dự trữ địa chỉ Ipv4. Liên tục trong các năm gần đây, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là các quốc gia xin cấp địa chỉ Ipv4 nhiều nhất từ APNIC. Ba quốc gia này hiện đang nằm trong số 15 nước sở hữu số lượng địa chỉ IP lớn nhất. Một số quốc gia đông dân như Ấn Độ gần đây lượng địa chỉ xin cấp từ APNIC cũng tăng cao so với nhu cầu của các năm trước đó.
|
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
Tổng số /8 |
Đài Loan |
0.05 |
0.17 |
0.08 |
0.09 |
0.09 |
0.10 |
0.11 |
0.10 |
0.24 |
1.42 |
Trung Quốc |
0.34 |
0.51 |
0.46 |
0.72 |
1.11 |
0.83 |
1.41 |
2.22 |
1.89 |
9.96 |
Hàn Quốc |
0.51 |
0.24 |
0.25 |
0.23 |
0.19 |
0.53 |
0.47 |
0.46 |
0.44 |
3.94 |
Singapore |
0.02 |
0.01 |
0.01 |
0.01 |
0.02 |
0.01 |
0.01 |
0.06 |
0.02 |
0.26 |
Malaysia |
0.01 |
0.02 |
0.02 |
0.01 |
0.03 |
0.01 |
0.02 |
0.03 |
0.04 |
0.23 |
Hồng Kông |
0.04 |
0.04 |
0.06 |
0.05 |
0.04 |
0.03 |
0.03 |
0.03 |
0.02 |
0.45 |
Thái Lan |
0.01 |
0.01 |
0.00 |
0.01 |
0.02 |
0.04 |
0.03 |
0.04 |
0.03 |
0.26 |
Úc |
0.06 |
0.05 |
0.03 |
0.05 |
0.09 |
0.10 |
0.23 |
0.16 |
0.17 |
2.14 |
Nhật Bản |
0.14 |
0.62 |
0.64 |
0.74 |
0.74 |
1.39 |
0.50 |
0.42 |
0.46 |
7.89 |
Indonesia |
0.01 |
0.01 |
0.01 |
0.01 |
0.01 |
0.03 |
0.02 |
0.05 |
0.25 |
0.40 |
Ấn Độ |
0.03 |
0.02 |
0.04 |
0.01 |
0.14 |
0.06 |
0.13 |
0.33 |
0.03 |
1.05 |
Việt Nam |
0.00 |
0.00 |
0.00 |
<0.01 |
0.02 |
<0.01 |
<0.01 |
0.18 |
0.03 |
0.26 |
Bảng 3: Số lượng địa chỉ IPv4 (theo đơn vị /8) được cấp từ APNIC của một số quốc gia và vùng lãnh thổ qua các năm (nguồn: www.apnic.net).
2. Động thái của các quốc gia và các tổ chức quản lý địa chỉ quốc tế trong tình hình hiện tại a. Động thái của các tổ chức quản lý địa chỉ quốc tế
Các tổ chức quản lý địa chỉ IP quốc tế đều có những động thái nhằm chuẩn bị cho việc cạn kiệt nguồn địa chỉ IPv4. Bao gồm hai dạng:
- Các chính sách nhằm phân bổ vùng địa chỉ IPv4 còn lại.
- Chính sách khuyến khích thúc đẩy về địa chỉ IPv6
IANA: IANA đã hạn chế số lượng địa chỉ cấp cho các RIR trong mỗi lần xin xuống còn tối đa 2 khối /8. Trước đây, lượng địa chỉ IPv4 mỗi lần cấp theo giải trình nhu cầu của RIR, có thể tới 4 khối /8 trong một lần xin cấp. IANA cũng đang thúc đẩy công tác thu hồi các vùng địa chỉ đã được cấp phát không kiểm soát trong thời điểm ban đầu của Internet, khi các RIR chưa thành lập.
RIR: Các năm trước đây, RIR giữ trạng thái trung lập về thông tin tài nguyên địa chỉ. Đầu năm 2007, các RIR đã chính thức thừa nhận về việc cạn kiệt địa chỉ IPv4 và cảnh báo cho cộng đồng thời điểm hết địa chỉ IPv4 đã đến rất gần và nguồn địa chỉ IPv4 đã giảm xuống tới mức việc ứng dụng triển khai IPv6 là cần thiết cho mọi ứng dụng nếu muốn tiếp tục phát triển trong tương lai. Năm tổ chức quản lý địa chỉ toàn cầu thống nhất hợp tác cùng nhau thúc đẩy chính sách về địa chỉ IPv6, tăng cường đào tạo cho cộng đồng về IPv6, tổ chức các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm về triển khai địa chỉ IPv6.
Tổ chức quản lý địa chỉ Bắc Mỹ (ARIN) chính thức ra nghị quyết cho khu vực về việc thừa nhận IPv6 là phù hợp cho mọi ứng dụng cần tài nguyên trong tương lai và thống nhất hợp tác phát triển địa chỉ IPv6 trong khu vực để có sự tiếp nối không gián đoạn trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên địa chỉ.
Trong phiên họp thường niên lần thứ 24 (APNIC 24), tổ chức quản lý địa chỉ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã công bố nghị quyết cho cộng đồng về vấn đề IPv4, IPv6 hiện nay. Trong đó thừa nhận địa chỉ IPv4 sẽ hết trong vòng từ 2 đến 4 năm tới. Cộng đồng APNIC nhận thức được việc triển khai IPv6 là then chốt và quyết tâm cùng nhau triển khai địa chỉ IPv6 nhằm đảm bảo sự phát triển thành công của Internet khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Tổ chức quản lý địa chỉ khu vực Châu Phi AFNIC chính thức công bố trên báo chí cảnh báo về việc cạn kiệt địa chỉ IPv4, yêu cầu cộng đồng triển khai IPv6 và tuyên bố triển khai các chiến dịch nhằm thúc đẩy sử dụng địa chỉ IPv6.
b. Động thái của các quốc gia.
Với vai trò tổ chức quản lý địa chỉ quốc gia, các NIR chịu trách nhiệm cao trong việc đảm bảo tài nguyên cho hoạt động mạng quốc gia.
- JPNIC (Nhật Bản): Nhật Bản là một trong những quốc gia có nhu cầu tiêu thụ địa chỉ rất lớn. Việc cập nhật chính sách và định hướng cho cộng đồng được thực hiện rất tốt. Tháng 3/2006, JPNIC đã thực hiện một bản báo cáo “các khuyến nghị chuẩn bị cho tình trạng hết địa chỉ IPv4”, trong đó phân tích về nhu cầu tài nguyên của Nhật Bản, khuyến nghị về tính cần thiết của việc triển khai địa chỉ IPv6 (http://www.jpnic.net/en/research/IPv4exhaustion_trans-pub.pdf ).
- CNNIC (Trung Quốc): Trong những năm qua, CNNIC rất tích cực thực hiện vai trò quản lý địa chỉ dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Trung Quốc. Số lượng địa chỉ IPv4 vô cùng lớn CNNIC yêu cầu APNIC qua các năm đã phản ánh việc Trung Quốc đang tích cực dự trữ địa chỉ chuẩn bị cho thời kỳ cạn kiệt địa chỉ IPv4.
- NIC Mexico: Chính thức thông báo với cộng đồng họ sẽ không có khả năng cung cấp địa chỉ IPv4 từ 01/01/2011. Từ thời điểm đó, mọi địa chỉ cấp phát sẽ là IPv6. Thậm chí, thời điểm kết thúc của địa chỉ IPv4 có thể đến sớm hơn. Các công ty, tổ chức vv… được khuyến nghị triển khai ngay địa chỉ IPv6.
3. Chính sách thúc đẩy phát triển IPv6
Kể từ năm 2006, với sự kết thúc của mạng thử nghiệm Ipv6 toàn cầu đầu tiên (6-bone), giao thức Ipv6 được coi là chính thức trưởng thành, không còn nằm trong thời kỳ thử nghiệm. Tình trạng hết địa chỉ IPv4 khiến cho việc phát triển sử đụng địa chỉ IPv6 trở thành bắt buộc đối với các quốc gia, nhằm phục vụ cho sự phát triển tiếp tục của mạng Internet. Kế hoạch ứng dụng IPv6, đưa IPv6 vào các chiến lược phát triển về công nghệ thông tin được triển khai trên khắp các quốc gia toàn cầu.
Trên khắp các quốc gia toàn cầu, các Uỷ ban thúc đẩy IPv6 (IPv6 Task Force) được thành lập để đảm nhiệm công tác thúc đẩy IPv6, cũng như hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm triển khai. Nhiều dự án phát triển mạng IPv6 được triển khai nhằm mục đích thiết lập các mạng IPv6 quốc gia.
- Nhật Bản: Ngay từ năm 2001, trong chiến lược e-japan, Uỷ ban chiến lược IT của quốc hội đã chỉ đạo việc ứng dụng IPv6 sẽ đảm bảo cho việc phát triển liên tục của hoạt động Internet. Nhật Bản là quốc gia ứng dụng IPv6 rất tích cực, trong các mạng Chính phủ, cũng như trong hoạt động cung cấp dịch vụ của ISP. Hiện tại, trong thị trường Nhật Bản đã cung cấp một số dịch vụ IPv6, cũng như nhiều dạng thiết bị hỗ trợ IPv6. Nhật Bản đang thực hiện các công tác tìm kiếm đối tác về phát triển IPv6, như hội thảo về phát triển IPv6 do đại sứ Nhật tổ chức tại Việt Nam tháng 06/2006 vừa qua.
Tháng 1/2006, Uỷ ban chiến lược IT của Nhật Bản tiếp tục công bố “Chiến lược cải tổ IT mới - New IT Reform Strategy”. Trong đó nhấn mạnh việc đảm bảo tương thích với IPv6 vào thời năm 2008 và “hệ thống e-government” cần tương thích với IPv6 một cách không chậm trễ.
Thực hiện các chiến lược về công nghệ thông tin, Bộ nội vụ và Truyền thông Nhật (MIC) đã công bố bản “hướng dẫn kích hoạt IPv6 cho các hệ thống chính phủ điện tử”, nêu rõ sự cần thiết của IPv6, hướng dẫn về các tiêu chuẩn, thiết bị … hỗ trợ IPv6 hiện tại.
- Mỹ: Năm 2003, Bộ quốc phòng Mỹ công bố áp dụng IPv6 cho mạng quốc phòng. Năm 2005, Uỷ ban Ngân sách Mỹ chính thức yêu cầu đến tháng 06/2008, toàn bộ văn phòng liên bang phải sử dụng địa chỉ IPv6. Dựa trên những báo cáo của các bộ phận có trách nhiệm như: báo cáo của GAO (Government Accountability Office), báo cáo của Uỷ ban thông tin và truyền thông quốc gia (NTIA) phân tích về IPv6 và việc ứng dụng IPv6 trong mạng liên bang ( http://www.gao.gov/new.items/d05471.pdf ), báo cáo của US-CERT về khả năng bảo mật của IPv6, Uỷ ban Ngân sách Mỹ đã ban hành kế hoạch và lộ trình bắt buộc đối với các văn phòng liên bang để triển khai IPv6 .
- Hàn Quốc:
Năm 2007, Bộ thông tin và truyền thông Hàn Quốc đã chính thức ra nhiệm vụ cho ngành công nghiệp IT Hàn Quốc về việc cung cấp các dịch vụ sử dụng địa chỉ IPv6. Trong dự án cung cấp dịch vụ IPv6 của năm 2007, các doanh nghiệp (SK Networks, Samsung Electronics, LG Dacom, Freechal…) cùng với các cơ quan chính phủ sẽ cung cấp và sử dụng các dịch vụ dựa trên nền IPv6: VoIP, WCDMA, IPTV, một số dịch vụ thông tin dự báo thảm họa, dự báo thời tiết…Dự án này chi phí 3,85 tỉ Won (trong đó Chính phủ chi 1,6 tỉ Won) .
Ngay từ năm 2004, trong kế hoạch về chiến lược phát triển công nghệ thông tin đến năm 2010, gọi là Chiến lược IT839 (8 dạng dịch vụ, 3 cơ sở hạ tầng, 9 động cơ thực hiện) đã chỉ rõ thế hệ mạng mới với IPv6 là một trong số 3 cơ sở hạ tầng cơ bản trong kế hoạch phát triển công nghệ thông tin. Hiện nay, Hàn Quốc là một trong số các quốc gia có mức độ ứng dụng địa chỉ IPv6 rộng rãi nhất. Bộ Thông tin và truyền thông Hàn Quốc đưa ra mục tiêu từ nay đến năm 2010, Hàn Quốc phải đẩy mạnh sử dụng địa chỉ IPv6 trong các mạng, cơ sở hạ tầng, dự án về IPv6 đang được phát triển. Bộ này đã thành lập một uỷ ban tư vấn nhằm thúc đẩy các yêu cầu đăng ký địa chỉ Ipv6. Một số phương án được dự kiến áp dụng như: đến năm 2010, mặc định cung cấp địa chỉ IPv6 cho những văn phòng công cộng khi yêu cầu địa chỉ, hoặc chỉ cho đăng ký tên miền với địa chỉ IPv6 và chỉ cho phép đăng ký địa chỉ IPv4 khi có giải trình.
- Trung Quốc: Trung Quốc là một trong những quốc gia có nhu cầu về địa chỉ IP lớn nhất của Châu Á. Nhằm đảm bảo cho sự phát triển nóng của công nghệ, chiến lược về tài nguyên là một trong những điểm quan tâm hàng đầu của Chính phủ Trung Quốc. Bên cạnh việc lên kế hoạch đảm bảo về tài nguyên địa chỉ IPv4 cho nhu cầu phát triển mạng trong những năm tới, triển khai mạng IPv6 là một trong những yêu cầu bắt buộc của Chính phủ Trung Quốc khi phê duyệt tài chính thiết lập mạng nghiên cứu CNGI quốc gia, bắt buộc 5 nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu của Trung Quốc tham gia thiết lập mạng. Hiện tại, mạng thông tin phục vụ Olympic 2008 đã được triển khai chạy thử, theo như công bố, có nhiều ứng dụng được cung cấp là dựa trên nền giao thức IPv6.
- Thái Lan, Malaysia, Philipin, Ấn Độ, Singapore, Indonesia, Đài Loan: Tất cả quốc gia này đều thành lập các Uỷ ban thúc đẩy IPv6 (IPv6 Task Force) để thúc đẩy ứng dụng địa chỉ IPv6, thực hiện các dự án về IPv6 và thiết lập mạng IPv6 quốc gia. Đây cũng là thành viên của Ủy ban thúc đẩy IPv6 khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Asia Pacific IPv6 Task Force).
- Ấn Độ: Chính phủ Ấn Độ coi việc ứng dụng IPv6 là một trong những hoạt động có tính ưu tiên hàng đầu. Triển khai địa chỉ IPv6 là điểm liệt kê thứ 6 trong kế hoạch hoạt động bao gồm 10 điểm của Bộ thông tin và truyền thông Ấn Độ, công bố năm 2004. Gần đây, Bộ thông tin và truyền thông Ấn Độ tích cực triển khai các hoạt động về IPv6 phối hợp quốc tế như phối hợp với cộng đồng Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản.
- Malaysia: Chính phủ Malaysia phê duyệt kinh phí cho hoạt động thúc đẩy IPv6 quốc gia và thành lập Trung tâm phát triển IPv6 – NAv6 Centre (http://www.nav6.usm.my/) Thực thể này sẽ chịu trách nhiệm lên kế hoạch, thúc đẩy nhận thức cộng đồng về IPv6 và thực hiện yêu cầu của Chính phủ là đảm bảo Malaysia là quốc gia sẵn sàng với IPv6 vào năm 2010. Lộ trình triển khai IPv6 bắt đầu từ ISP nhằm cung cấp mạng cơ sở hạ tầng (yêu cầu ISP triển khai IPv6 vào năm 2007) và các mạng Chính phủ vào năm 2008. NAv6 Centre hiện đang hoạt động rất tích cực với nhiệm vụ của mình. Sắp tới, cùng với Singapore, Malaysia tổ chức ASEAN IPv6 WORKSHOP với tiêu chí để các nước thành viên Asian trao đổi kinh nghiệm, chiến lược triển khai Ipv6 và cùng nhau xây dựng một phương thức nhằm đưa các nước Asean trở thành tương thích với IPv6.
4. Tình hình tài nguyên địa chỉ tại Việt Nam
Trên phương diện triển khai IPv6:
Ngày 6/5/2008, Bộ trưởng Bộ thông tin và Truyền thông đã ban hành chỉ thị số 03/2008 về việc thúc đẩy sử dụng địa chỉ Internet thế hệ mới IPv6. Chỉ thị này đã đánh dấu một mốc quan trọng trong lĩnh vực triển khai IPv6 ở Việt Nam. Sự ra đời của chỉ thị 03/2008 kết hợp với các nỗ lực không ngừng của VNNIC ở cương vị cơ quan quản lý nhà nước đã giúp nâng cao rõ rệt nhận thức của các ISP và tỏ chức trong nước về vấn đề triển khai IPv6. Tính đến thời điểm hiện tại, 21/36 thành viên địa chỉ của VNNIC đã xin cấp phát IPv6 để sử dụng. Tổng số vùng địa chỉ IPv6 có tại Việt Nam là 24 vùng ( 8 /32 và 16 /48).
Vấn đề tài nguyên Ipv6 là hoàn toàn sẵn sàng, tuy nhiên, xét về khía cạnh triển khai IPv6 ở Viêt Nam vẫn chưa có nhiều dấu hiệu khả quan. Doanh nghiệp ISP cũng như các tổ chức mạng vẫn còn đang loay hoay vấn đề thử nghiệm và kết nối. Để Việt Nam có được những sản phẩn thương mại trên nền Ipv6 chắc chắn sẽ còn mất nhiều thời gian nữa.
Trên phương diện sử dụng địa chỉ IPv4:
Với vai trò quản lý tài nguyên địa chỉ IP tại Việt Nam, trong những năm vừa qua, VNNIC đã cố gắng thúc đẩy nhu cầu sử dụng tài nguyên địa chỉ trong cả nước. Thực tế cho thấy đã có sự gia tăng đáng kể trong số lượng địa chỉ Ipv4 được cấp phát từ VNNIC cho các hoạt động Internet tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự gia tăng này chưa tương xứng với tốc độ phát triển dịch vụ Internet và công nghệ thông tin tại Việt Nam. Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Internet chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tài nguyên địa chỉ IP trong hoạt động phát triển mạng lưới và dịch vụ. Ngay cả hiện tại, khi địa chỉ IPv4 gần hết, trong khi các nước có thái độ rõ ràng về việc xin cấp địa chỉ IPv4 thoả mãn nhu cầu phát triển mạng lưới trong những năm tới thì các tổ chức hoạt động Internet tại Việt Nam vẫn chưa có những động thái tích cực trong việc đánh giá nhu cầu của mạng lưới, mặc dù VNNIC đã nhiều lần cảnh báo.
Trên phương diện sử dụng địa chỉ IPv4, ISP Việt Nam vẫn tồn tại những “thói quen” không có lợi như:
- Sử dụng NAT và địa chỉ IP dùng riêng nhằm tiết kiệm địa chỉ IPv4.
- Cấp địa chỉ IP động cho khách hàng: Trước đây, khi dạng phương thức kết nối vào Internet chủ yếu là dialup thì việc sử dụng IP động tiết kiệm được địa chỉ IP do thời gian truy cập mạng của người sử dụng ít. Hiện tại, với những phương thức kết nối băng thông rộng (DSL), người sử dụng kết nối mạng 24/24, việc cấp địa chỉ động không có tác dụng nhiều trong việc tiết kiệm địa chỉ, lại gây cản trở cho khách hàng trong việc sử dụng các dịch vụ Internet.
Mặt khác, khi khách hàng sử dụng địa chỉ IP động, việc xác định nguồn gốc truy cập Internet rất khó khăn. Địa chỉ động thường là nguồn lạm dụng mạng, thực hiện hành vi spam… , gây khó khăn cho việc quản lý.
- Hạn chế lượng địa chỉ IPv4 cấp phát cho khách hàng. Có thể thấy qua các gói dịch vụ kế nối băng thông rộng của các ISP Việt Nam, lượng địa chỉ IP cấp cho khách hàng rất ít, gắn theo dung lượng thuê bao, không thoả mãn nhu cầu sử dụng khiến cho các tổ chức phải thực hiện dùng địa chỉ dùng riêng và NAT trong mạng của mình. Việc sử dụng NAT tốn thiết bị, nhân công quản lý và kém hiệu quả trong khai thác dịch vụ Internet.
Dưới đây là số liệu về lượng địa chỉ IPv4 của Việt Nam và tỉ lệ địa chỉ IP/người sử dụng so với các quốc gia trong khu vực:
|
Tổng số IP (khối /8) |
IP/người sử dụng |
AU |
1.94 |
2.21 |
JP |
9.31 |
1.81 |
KR |
3.44 |
1.69 |
SG |
0.23 |
1.58 |
CN |
7.53 |
0.96 |
TH |
0.22 |
0.43 |
PH |
0.14 |
0.3 |
MY |
0.19 |
0.28 |
VN |
0.21 |
0.21 |
Bảng 4: Số lượng địa chỉ IPv4 và tỉ lệ địa chỉ IP/ người sử dụng Internet của Việt Nam.
So với các quốc gia khác trong khu vực thì số lượng địa chỉ IPv4 của Việt Nam còn thấp trong khi dân số lại cao. Tỉ lệ trung bình địa chỉ IPv4 trên người sử dụng Internet thấp hơn cả Phillipin và Thái Lan, trong khi số lượng người sử dụng Internet và chỉ số về tỉ lệ người sử dụng Internet cao hơn.
Nếu áp dụng các chỉ tiêu trong kế hoạch chiến lược viễn thông và dân số đến năm 2010:
- Tỉ lệ dân số sử dụng Internet là 35% (theo số liệu dự thảo Qui hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010 của Viện chiến lược)
- Dân số Việt Nam: khoảng 88 triệu người (Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010)
Nếu tỉ lệ địa chỉ IP/người sử dụng Internet được nâng lên mức 0.96 như Trung Quốc thì đến năm 2010, để đảm bảo đủ tài nguyên địa chỉ cho hoạt động Internet, Việt Nam cần sở hữu một lượng tài nguyên địa chỉ 1,76 khối /8 (tương đương 115.500 class C địa chỉ). So sánh với số liệu hiện nay đang sở hữu: 0.26 khối /8 (tương đương 17.039 class C địa chỉ), chúng ta cần có kế hoạch thúc đẩy nhanh lượng tài nguyên địa chỉ IPv4 trong thời gian tới.
5. Khuyến nghị của VNNIC trước vấn đề tài nguyên hiện tại. Từ năm 2004, khi tốc độ tiêu thụ địa chỉ IPv4 toàn cầu tăng vọt, VNNIC đã nhiều lần cảnh báo và khuyến nghị cộng đồng về tính cần thiết của việc lên kế hoạch đảm bảo nhu cầu địa chỉ trong tương lai.
Tháng 12/2005 gửi khuyến nghị tới các thành viên địa chỉ của VNNIC về khả năng cạn kiệt địa chỉ IPv4 và yêu cầu có những kế hoạch đảm bảo tài nguyên địa chỉ IPv4, lên kế hoạch phát triển địa chỉ IPv6.
Nhằm hạn chế tối đa sự tác động xấu tới hoạt động phát triển mạng lưới, dịch vụ của các thành viên địa chỉ nói riêng, hoạt động Internet Việt Nam nói chung, VNNIC yêu cầu tất cả các thành viên địa chỉ:
+ Nhanh chóng nghiên cứu triển khai IPv6 theo đúng tinh thần Chỉ thị số 03 /2008/ CT-BTTTT ngày 06 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về việc thúc đẩy sử dụng địa chỉ Internet thế hệ mới IPv6
+ Có kế hoạch đăng ký, quản lý, sử dụng IPv4 trong giai đoạn cuối hiệu quả, phù hợp.